Các giải thưởng Văn học Việt Nam giai đoạn 1945–1954

Các giải thưởng trong giai đoạn 1945 – 1954 dưới đây tóm tắt từ phần Phụ lục, trong cuốn Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) do Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Văn học (Việt Nam) thực hiện.[19].

Giải thưởng văn nghệ 1951-1952

Giải thưởng văn nghệ 1951 – 1952 được trao cho các tác phẩm truyện và ký sự, thơ, kịch, các tác phẩm dịch.

  • Truyện và ký sự
    • Giải ngoại hạng: toàn bộ Truyện anh hùng và chiến sĩ thi đua do các nhà văn viết lại theo các bản tự thuật của các chiến sĩ trong Đại hội thi đua toàn quốc 1952.
    • Giải nhất: tiểu thuyết Vùng mỏ của Võ Huy Tâm.
    • Giải nhì: gồm 2 giải trao cho ký sự Trận Thanh Hương của Nguyễn Khắc Thứ; và tiểu thuyết Xung kích của Nguyễn Đình Thi.
    • Giải ba: gồm 2 giải trao cho truyện ngắn Con đường sống của Minh Lộc; và ký sự Chiến thắng Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng.
    • Giải khuyến khích: gồm 3 giải cho các tác phẩm truyện ngắn Đánh trận giặc lúa của Bùi Hiển; truyện Xây dựng của Nguyễn Khải; truyện Ông Cốc của Nguyễn Khắc Mẫn.
  • Thơ
    • Giải nhất: toàn bộ các tác phẩm thơ ca kháng chiến của Tú Mỡ.
    • Giải nhì: tập thơ của Nông Quốc Chấn.
    • Giải ba: tập thơ của Bàn Tài Đoàn
    • Giải khuyến khích: trao ba giải cho Hai Tộ hò khoan của Trần Hữu Thung, các bài độc tấu của Thanh Tịnh; Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng
  • Kịch
    • Giải nhất: không có
    • Giải nhì: không có
    • Giải ba: trao hai giải cho kịch ngắn Chị Bắc giác ngộ của Nguyễn Khắc Dực và kịch 3 hồi Bão chuyển của Vũ Lăng.
    • Giải khuyến khích: trao 2 giải cho Tin chiến thắng Nghĩa Lộ của Đoàn văn công Nha tuyên truyền và văn nghệ; và chèo 10 cảnh Quách Thị Tước của Ngô Tất Tố.
  • Dịch thuật
    • Giải nhất: không có
    • Giải nhì: không có
    • Giải ba: 2 giải trao cho: toàn bộ các bản dịch về kịch của Thế Lữ, hai bản dịch Trời hửng và Trước lửa chiến đấu của Ngô Tất Tố.

Giải thưởng văn nghệ 1954-1955

Giải thưởng văn nghệ 1954-1955 do Hội Văn nghệ Việt Nam đề ra cho năm 1954 nhưng do hoàn cảnh hòa bình nên gia hạn thêm đến đầu năm 1955. Số tác phẩm gửi đến ban tổ chức gồm 362 tập thơ, 108 truyện ký, 65 kịch bản, 56 bản dịch. Ban giám khảo đã làm việc từ tháng 12 năm 1955 đến tháng 3 năm 1956. Ngoài những tác phẩm được vào chung khảo, còn chọn thêm một số tác phẩm mới đã in hoặc chưa in trong năm 1955 có tác dụng phục vụ cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam.

  • Thơ
    • Giải nhất: tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
    • Giải nhì: ba giải trao cho: 2 tập thơ Đồng tháng Tám và Dặn con của Trần Hữu Thung; tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu, tập thơ Nụ cười chính nghĩa của Tú Mỡ
    • Giải ba: trao 1 giải cho Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại.
    • Giải khuyến khích: trao 4 giải: Thơ, ca dao về Nam Bộ kháng chiến của Nguyễn Hiêm; truyện thơ Chú Hai Neo của Nguyễn Hải Trừng; ca dao Chiếc vai cày của Việt Dung; tập thơ Anh Ba Thắng của Việt Ánh.
  • Truyện
    • Giải nhất: trao hai giải cho: tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, tập truyện Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
    • Giải nhì: 2 giải trao cho: Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng; tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng.
    • Giải ba: trao một giải cho tác phẩm Cái lu của Trần Kim Trắc.
    • Giải khuyến khích: ba giải: Đồng quê hoa nở của Hoàng Trung Nho; Gặp gỡ của Bùi Hiển; Cá bống mú của Đoàn Giỏi.
  • Ký sự
    • Giải nhất: không có
    • Giải nhì: không có
    • Giải ba: 2 giải: Lên công trường của Hồng Hà, và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh.
    • Giải khuyến khích: 3 giải: Đường lên Châu Thuận của Quang Dũng; Trại di cư Pagốt Hải Phòng của Sao Mai và Lòng mẹ của Bích Thuận.
  • Kịch
    • Giải nhất: không có
    • Giải nhì: trao một giải cho tác phẩm Lửa cháy lên rồi của Phan Vũ.
    • Giải ba: 5 giải trao cho 5 kịch bản: Mở Nông Giang của Nguyễn Khắc Dực; Chị Hòa của Học Phi; Lòng dân của Nguyễn Văn Xe; Ánh sáng Hà Nội của Hoàng Tích Linh; Việt ơi! của Bửu Tiến.
    • Giải khuyến khích: 3 giải: Chiến đấu trong lòng địch của Lộng Chương; Hai thái độ của Bàng Sĩ Nguyên; Cai Tô của Nguyễn Văn Thương.
  • Dịch thuật văn học
    • Giải nhất: không có
    • giải nhì: 4 giải trao cho 4 dịch phẩm Chiến sĩ chân chính Đổng Tồn Thụy do Lê Văn Cơ dịch; Chiến sĩ và Tổ quốc do Đào Vũ dịch; Chuyện vè Lý Hữu Tài do Đào Vũ dịch; và Lưu Hồ Lan do Phan Sinh dịch.
    • Giải ba: Bản thoại Lý Hữu Tài do Xích Liên dịch; Vichia Mêlêép do Hiệu đoàn Sư phạm trung cấp dịch; Vương Quý và Lý Hương Hương do Hoàng Trung Thông dịch.

Giải thưởng văn nghệ Phạm Văn Đồng

Giải thưởng văn nghệ Phạm Văn Đồng do Liên khu 5 đứng ra tổ chức năm 1952 trao giải nhất về thơ cho tập thơ Nhân dân một lòng của Tế Hanh; giải nhì về truyện (không có giải nhất) cho tiểu thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng; giải ba kịch và tuồng (không có giải nhất, nhì) trao cho vở tuồng hát bội Chị Ngộ của Nguyễn Lai.

Giải thưởng văn nghệ Cửu Long Giang (Nam Bộ 1949-1950)

Tác phẩm

  • Truyện
    • Giải nhất: truyện ngắn Con đường sống và tập truyện Anh Tư dân quân của Minh Lộc (Văn nghệ bộ đội, khu 8)
    • Hạng nhì: không có
    • Hạng ba: tập truyện ngắn Lòng dân của Phạm Hữu Tùng (Phân hội văn nghệ Sở thông tin Nam Bộ).
    • Hạng khuyến khích: những tập truyện của Phạm Anh Tài, Hoàng Linh, Linh Nã
  • Thơ
    • Hạng nhất: không có
    • Hạng nhì: tập thơ lục bát Bức thơ tình của Ba Dân (Văn nghệ bộ đội khu 9).
    • Hạng ba: trao hai giải cho một số bài thơ trong tập Chiến dịch mùa xuân của Nguyễn Bính, Việt Ánh, Dân Thanh, Truy Phong do Phòng chính trị khu 8 sưu tầm; và một số bài trong tập Hương đồng nội của Nguyễn Ngọc Tấn (khu 7).
    • Hạng khuyến khích: 2 giải cho một số bài trong tập Hò lờ thi đua của Nguyễn Quốc Nhân (Vĩnh Long); và một số tác phẩm của Huy Hà, Bảo Định Giang, Dương Phong, Lý Dũng Dân, Phương Viễn.
  • Kịch
    • Hạng nhất: không có
    • Hạng nhì: vở kịch Vì dân của Lê Minh (Phòng chính trị khu 8).
    • Hạng ba: 2 giải trao cho: vở Chiều ba mươi Tết của Hoang Tuyển (Văn nghệ bộ đội khu 8); và vở Quyết rửa thù của Phạm Công Minh (báo thống nhất).
    • Hạng khuyến khích: vở Giờ tôi mới hiểu của Duy Phương (Gia Định khu 7).

Tác giả

Giải thưởng văn nghệ Cửu Long Giang còn trao giải cho tác giả theo hai thứ hạng: ưu hạng về công lao đối với kháng chiến và văn nghệ; và hạng đặc biệt về công lao đối với kháng chiến và văn nghệ.

  • Ưu hạng: trao ba giải cho: Việt Ánh (thi sĩ, bị bệnh hiểm nghèo mà không chịu rời cơ quan công tác, đã sáng tác gần 40 tập thơ về địch vận, ngụy vận); Huỳnh Văn Gấm (họa sĩ, phụ trách công việc đặc biệt cần thiết cho kháng chiến 4 năm và có công trong việc hướng dẫn nền hội họa đại chúng); Xích Liên (nhà văn, tuy tuổi già và bệnh tật vẫn dịch nhiều tác phẩm của Liên Xô, Trung Hoa cho bộ đội đọc).
  • Hạng đặc biệt: trao 2 giải cho Nguyễn Cao Thương (họa sĩ, thương binh, có công đào tạo trên 300 cán bộ hội họa phục vụ kháng chiến); Nguyễn Ngọc Bạch (góp phần lớn trong việc xây dựng nền nhạc Việt Nam ở Nam Bộ và tận tụy với đoàn kịch lưu động).

Giải thưởng văn nghệ Cửu Long Giang (Nam Bộ 1951-1952)

Trao giải nhất về văn cho tác phẩm truyện ngắn Bên rừng Cù Lao Dung của Phạm Anh Tài và giải nhất về thơ cho tập thơ Anh Ba Thắng của Việt Ánh.